Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp được Quốc hội khoá XV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 27/6/2024, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Luật được ban hành có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển tiềm lực công nghiệp phục vụ nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, sau thời gian thực thi, Luật đã bộc lộ một số hạn chế cần được điều chỉnh, bổ sung nhằm phù hợp với yêu cầu thực tiễn, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, cùng với sự phát triển nhanh của khoa học - công nghệ và yêu cầu hiện đại hóa lực lượng vũ trang.
1. Về cơ sở chính trị, pháp lý
Ngày 26/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 158-KL/TW về xây dựng công nghiệp an ninh trong kỷ nguyên phát triển, vươn mình của dân tộc, trong đó, chỉ đạo tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường phát triển công nghiệp an ninh; ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp, đặc thù phục vụ phát triển mạnh mẽ công nghiệp an ninh. Đặc biệt, Bộ Chính trị chỉ đạo việc hình thành Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, định hướng cụ thể các nhóm, chuyên ngành sản phẩm, dịch vụ trọng tâm của Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Đồng thời, để tạo nguồn lực phục vụ phát triển công nghiệp an ninh, Bộ Chính trị chỉ đạo cụ thể việc thiết lập Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh.
Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, quy phạm hóa các chính sách có tính đột phá để tạo động lực thúc đẩy công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh mang dấu ấn riêng, tạo vị thế chiến lược mới cho Việt Nam với phương châm “tự lực, tự cường trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và bảo đảm an ninh quốc gia và có tính “lưỡng dụng”.
Tuy nhiên, ngay sau khi Luật được thông qua, nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng có liên quan đến công nghiệp an ninh đã được ban hành mới, đặc biệt là các Nghị quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân....
Đặc biệt, Kết luận số 158-KL/TW của Bộ Chính trị về xây dựng công nghiệp an ninh trong kỷ nguyên phát triển, vươn mình của dân tộc đề ra nhiều chủ trương, định hướng mới chưa được thể chế hóa trong Luật và cần được tiếp tục nghiên cứu, đưa vào nội dung của Luật. Kết luận số 158-KL/TW mở ra hướng đi rất mới, mang tính đột phá cho phát triển công nghiệp an ninh. Theo đó, công nghiệp an ninh không chỉ bó hẹp phục vụ cho lực lượng Công an nhân dân mà được mở rộng phục vụ toàn hệ thống chính trị và xã hội, hướng đến xuất khẩu, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi số quốc gia. Hoạt động sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công nghiệp an ninh được mở rộng, thu hút sự tham gia của các công ty, trung tâm nghiên cứu trong nhà nước và tư nhân, hình thành Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia do Nhà nước (Bộ Công an) dẫn dắt.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan cũng đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (thay thế Luật cũ từ 01/8/2025), Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (thay thế Luật cũ từ 01/10/2025), Luật Doanh nghiệp (sửa đổi theo Luật số 76/2025/QH15), và các Luật khác được sửa đổi theo Luật số 90/2025/QH15...

2. Về cơ sở thực tiễn
Hệ thống cơ sở công nghiệp an ninh đã và đang có nhiều sự điều chỉnh cả về quy mô và chất lượng. Bộ Công an đã tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại MobiFone từ ngày 27/02/2025, tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại FPT Telecom. Chính phủ đã giao Bộ Công an xây dựng, vận hành Trung tâm Dữ liệu quốc gia số 1.
Bên cạnh đó, Hiệp hội Dữ liệu quốc gia và Hiệp hội An ninh mạng quốc gia được thành lập, do Bộ trưởng Bộ Công an là Chủ tịch, nhằm kết nối các cơ quan, doanh nghiệp, hướng tới xây dựng hệ sinh thái dữ liệu vững mạnh. Đây là những tiền đề vững chắc để hình thành Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia, đồng thời đặt ra yêu cầu phải có cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt về nguồn lực tài chính.
Kinh nghiệm quốc tế (Mỹ, Nga, Pháp, Israel...) cho thấy cần thiết hình thành Tổ hợp công nghiệp an ninh mạnh, cùng các Quỹ đầu tư và cơ chế đặc thù để phát triển các sản phẩm lưỡng dụng hiện đại. Do đó, việc xây dựng dự án Luật để kịp thời quy phạm hóa chủ trương của Đảng là rất cần thiết.
3. Mục đích ban hành dự án Luật
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường phát triển công nghiệp an ninh phục vụ toàn hệ thống chính trị và xã hội, hướng đến xuất khẩu; ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp, đặc thù phục vụ phát triển mạnh mẽ công nghiệp an ninh.
4. Quan điểm xây dựng dự án Luật
- Thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng công nghiệp an ninh trong kỷ nguyên phát triển, vươn mình của dân tộc.
- Tuân thủ Hiến pháp năm 2013, sửa đổi, bổ sung năm 2025, phù hợp với các điều ước quốc tế, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp an ninh và công nghiệp quốc phòng, tránh trùng lặp trong đầu tư.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
* Về bố cục: Dự thảo Luật gồm 02 Điều:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp (gồm 06 khoản, sửa đổi 05 điều, bổ sung 01 mục về Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia).
- Điều 2: Hiệu lực thi hành.
* Về nội dung:
- Bổ sung vào Điều 6 nội dung về việc các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghiệp an ninh của Việt Nam khi có nhu cầu và trong viện trợ không hoàn lại.
- Sửa đổi khoản 3 Điều 20 để tách “Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh” thành 02 quỹ: “Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh” và “Quỹ công nghiệp quốc phòng”, giao Đảng ủy Công an Trung ương quản lý Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh.
- Sửa đổi điểm a khoản 4 Điều 21 về sử dụng lợi nhuận sau thuế để trích lập Quỹ. Phân định cụ thể: cơ sở CNQP nòng cốt trích lập Quỹ CNQP; cơ sở CNAN nòng cốt trích lập Quỹ đầu tư phát triển CNAN, tránh chồng chéo.
- Sửa đổi Điều 22 để tách biệt 02 Quỹ. Giao Bộ Công an quản lý Quỹ đầu tư phát triển công nghiệp an ninh. Bổ sung quy định đặc thù cho Quỹ này (chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, nguồn tài chính từ đóng góp của thành viên Tổ hợp...).
- Bổ sung 01 mục về Tổ hợp công nghiệp an ninh quốc gia vào Chương II (gồm 04 Điều: 45a, 45b, 45c và chính sách Nhà nước). Quy định cụ thể nội dung đặc thù để tránh trùng dẫm với Tổ hợp công nghiệp quốc phòng.
- Sửa đổi Điều 79, thay “Cơ quan chuyên trách về công nghiệp an ninh” thành “Hội đồng quản lý phát triển công nghiệp an ninh” do Bộ trưởng Bộ Công an là Chủ tịch. Bổ sung trách nhiệm của Bộ Công an trong chứng nhận sự phù hợp của sản phẩm, dịch vụ.
Bài: Trịnh Xuân Hùng, Phòng Hành chính tổng hợp