Song, bên cạnh những lợi ích mang lại, không gian mạng cũng đặt ra nhiều nguy cơ, thách thức, tác động trực tiếp đến chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Các cuộc tấn công mạng với động cơ chính trị vào hệ thống thông tin trọng yếu của các nước ngày càng gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Tội phạm mạng ngày càng nguy hiểm, phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, kỹ thuật cao, sử dụng các loại mã độc, ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tấn công, xâm nhập. Không gian mạng đang trở thành môi trường thuận lợi để các cơ quan đặc biệt nước ngoài, cá nhân, tổ chức khủng bố liên lạc, tuyển mộ lực lượng, gây quỹ, truyền bá tư tưởng chống đối cực đoan, kích động sự hận thù và bạo lực.

Để bảo vệ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng và ứng phó với những nguy cơ mới từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, được xác định là một nội dung cốt lõi, sống còn trong quá trình bảo vệ và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Do đó, các nước trên thế giới đã ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thiết lập quy tắc ứng xử để điều chỉnh các hành vi, mối quan hệ xã hội trên không gian mạng, góp phần nâng cao năng lực bảo vệ an ninh mạng và phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng. Đến nay, đã có hơn 140 quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng. Trong vòng 6 năm trở lại đây, có 23 quốc gia ban hành trên 40 văn bản luật và dưới luật về an ninh mạng. Điển hình là tháng 9/2018, Mỹ đã công bố Chiến lược An ninh mạng, trong đó xác định mối đe dọa về an ninh mạng là mối đe dọa hàng đầu đối với an ninh quốc gia; tuyên bố sẵn sàng đáp trả bằng các biện pháp quân sự nếu an ninh mạng quốc gia bị đe dọa, tấn công. Tháng 12/2018, Australia ban hành Luật An ninh mạng, ngoài việc nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh mạng, Luật này còn cho phép cơ quan chức năng được truy cập vào các dữ liệu được mã hóa của các nhà mạng.
Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển internet nhanh nhất thế giới; số lượng ngơời dùng mạng xã hội ở Việt Nam khoảng trên 72 triệu người, tương đương 73% dân số; không gian mạng ở nước ta tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức lớn tác động đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, cụ thể là:
- Các thế lực thù địch, phản động tăng cường sử dụng không gian mạng để phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây mâu thuẫn dân tộc, kích động biểu tình, bạo loạn nhằm chuyển hóa thể chế chính trị tại Việt Nam. Không gian mạng và một số loại hình dịch vụ, ứng dụng công nghệ thông tin đang bị các thế lực thù địch, phản động sử dụng để thực hiện âm mưu tiến hành “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” nhằm xóa bỏ chế độ chính trị ở nước ta. Tình trạng đăng tải thông tin sai sự thật, làm nhục, vu khống tổ chức, cá nhân tràn lan trên không gian mạng nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc về nhân mạng, tinh thần, thậm chí ảnh hưởng tới chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Vấn nạn tin giả, thông tin sai sự thật, tin xấu, độc, làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đang diễn ra nghiêm trọng, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Ngày càng xuất hiện nhiều cuộc tấn công mạng với quy mô lớn, cường độ cao, gia tăng về tính chất nghiêm trọng, mức độ nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. “Khủng bố mạng” nổi lên như một thách thức đe dọa nghiêm trọng tới an ninh quốc gia. Hoạt động phạm tội trên không gian mạng ngày càng gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, ảnh hưởng đến tư tưởng, văn hóa, xã hội. Hệ thống mạng của nước ta nằm trong nhóm các quốc gia phải đối mặt với hoạt động tấn công mạng quy mô lớn, cường độ cao, tính chất nghiêm trọng và ngày càng nguy hiểm. Việt Nam xếp thứ 20 trong số các nước trên thế giới có hệ thống mạng bị tấn công bởi phần mềm độc hại, đứng thứ 8 trong số 10 quốc gia hàng đầu thế giới về tình trạng lây nhiễm mã độc cục bộ. Từ cuối năm 2015 đến nay, đã có 12.360 trang tin, cổng thông tin điện tử tên miền quốc gia (.vn) của Việt Nam bị tin tặc tấn công, thay đổi giao diện, trong đó có trên 400 trang tin, cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; có 9.763 trang tin bị tấn công bởi tin tặc nước ngoài và 2.597 trang tin bị tấn công bởi các đối tượng, nhóm tin tặc trong nước (chiếm 21%). Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia chưa được xác định và bảo vệ bằng các biện pháp tương xứng. Do chưa xác định nội hàm sự cố an ninh mạng nên khi xảy ra các sự cố nguy hại, ảnh hưởng tới chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, việc triển khai hoạt động ứng phó, xử lý, khắc phục hậu quả của cơ quan chức năng có liên quan rất lúng túng, chưa có quy trình thống nhất, cơ quan có trách nhiệm bảo vệ an ninh mạng chưa thể chủ động triển khai các biện pháp, phương án phù hợp.
- Tình hình chiếm đoạt thông tin, làm lộ bí mật nhà nước, lộ thông tin cá nhân của người dùng internet diễn ra đáng lo ngại. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng trên là do nhận thức của các cơ quan, doanh nghiệp và cá nhân về bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng còn hạn chế, ý thức trách nhiệm của nhiều cán bộ, nhân viên trong bảo mật thông tin trên không gian mạng còn chưa cao, chế tài xử phạt chưa đủ răn đe.
- Hoạt động tội phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt và hệ lụy lâu dài cho xã hội, trong đó có các hoạt động tội phạm, như lừa đảo, lừa đảo qua mạng, tổ chức đánh bạc trực tuyến...
- Công tác quản lý nhà nước về không gian mạng đối mặt với nhiều thách thức trước những dịch vụ mới trên mạng, như thanh toán trực tuyến, thương mại điện tử, trò chơi trực tuyến, kinh doanh tiền ảo, kinh doanh đa cấp. Đồng thời, đặt ra một số vấn đề về an ninh quốc gia, nguy cơ mất an ninh thanh toán, an ninh thông tin mạng, như nguy cơ mất an ninh thông tin mạng tạo điều kiện cho đối phương tiến hành thu thập tin tức tình báo; nguy cơ thất thu thuế, mất chủ quyền không gian thanh toán; tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thanh toán, trung gian thanh toán trong và ngoài nước tạo môi trường lý tưởng cho tội phạm sử dụng công nghệ cao hoạt động phạm tội, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự xã hội.
- Công tác đào tạo chuyên gia an ninh mạng còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Nhằm tăng cường bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; phòng ngừa, ứng phó với các nguy cơ đe dọa an ninh mạng; khắc phục hạn chế, yếu kém liên quan đến bảo vệ an ninh mạng, Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật An ninh mạng năm 2018 (sau đây gọi là Luật An ninh mạng). Không như một số luận điểm xuyên tạc của kẻ xấu, Luật hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật An ninh mạng thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về an ninh mạng, cụ thể:
- Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
- Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
- Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới. Trong đó khẳng định vấn đề an ninh mạng đang là vấn đề rất phức tạp, cần được chú trọng giải quyết đồng bộ, hiệu quả.
- Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng.
- Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị về phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet.
- Nghị định số 101/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết trách nhiệm thực hiện và các biện pháp ngăn chặn hoạt động sử dụng không gian mạng để khủng bố...
- Luật An ninh mạng bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và bảo vệ Tổ quốc. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Luật An ninh mạng sẽ quy định các biện pháp nghiệp vụ an ninh mạng, trong đó có một số biện pháp có khả năng ảnh hưởng tới quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như giám sát an ninh mạng, hạn chế thông tin mạng... Do vậy, việc ban hành Luật An ninh mạng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp là cần thiết. Bên cạnh đó, việc ban hành Luật này cũng góp phần cụ thể hóa tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp về bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là quy định “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm” và “mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”.
- Luật An ninh mạng bảo đảm sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua nghiên cứu cho thấy, hiện đã có nhiều quốc gia trên thế giới ban hành các văn bản luật về an ninh mạng, điển hình như: Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Anh, Úc, Cộng hòa Séc, Hàn Quốc... Riêng Mỹ đã ban hành tới 6 đạo luật chuyên ngành về các vấn đề về an ninh mạng là: Đạo luật Đánh giá Lực lượng An ninh mạng, Đạo luật Tăng cường An ninh mạng năm 2014, Đạo luật Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia 2014, Đạo luật hiện đại hóa An ninh thông tin Liên bang năm 2014, Dự luật Chia sẻ thông tin An ninh mạng năm 2015, Dự luật Tăng cường Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia năm 2015. Ngày 7.12.2015, Hội đồng và Nghị viện châu Âu đạt được sự thống nhất về các biện pháp thúc đẩy an ninh mạng tổng thể trong Liên minh châu Âu tại Chỉ thị An ninh thông tin và mạng (Network and Information Security) nhằm tăng cường các khả năng an ninh mạng của các quốc gia thành viên, tăng cường sự hợp tác của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực an ninh mạng. Việc xây dựng, ban hành Luật An ninh mạng sẽ bảo đảm công tác an ninh mạng của nước ta có sự phù hợp nhất định với thông lệ quốc tế và bảo đảm các điều kiện hội nhập quốc tế về an ninh mạng.
Đáp ứng yêu cầu thực tiễn trên, Luật An ninh mạng của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ 5 (từ ngày 21/5/2018 đến ngày 15/6/2018), với tỷ lệ 86.86%, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cụ thể là:
Thứ nhất, quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về an ninh mạng; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Đây là cơ sở để xác định phạm vi đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về an ninh mạng.
Thứ hai, quy định đầy đủ các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng được quy định tại Chương II, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên trong. Với các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, xử lý các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin an ninh quốc gia.
Thứ ba, đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng... Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.
Thứ tư, tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm an ninh mạng sẽ được phát hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác an ninh mạng hiện tại và tương lai.
Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền điện tử thời gian qua.
Thứ sáu, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn, lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả.
Thứ bảy, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Bài: Trịnh Xuân Hùng, Phòng Hành chính tổng hợp